Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Sở Từ
chèo lan 棹蘭
dt. <Nho> dịch chữ lan tương trong cụm quế trạo lan tương 桂棹蘭槳 trong bài Thiếu Ti Mệnh phần Cửu ca sách Sở Từ. Bài này miêu tả người ẩn sĩ bơi chiếc thuyền con giữa sóng nước mệnh mông để đi tìm một người đẹp lý tưởng (mỹ nhân)- đó là con người với những vẻ đẹp ưu trội bên trong. (Trần tình 42.1)
Huyền Minh 玄冥
dt. tên thần, thần mùa đông. Sách Lễ Ký thiên Nguyệt lệnh viết: “Vua mùa đông là Chuyên Húc, thần mùa đông là Huyền Minh.” (其帝顓頊 ,其神玄冥). Sở Từ bài Viễn Du của Lưu Hướng có câu: “Đón Chuyên Húc mà bày lời chừ, xét Huyền Minh ở không tang.” (就顓頊而敶詞兮,考玄冥於空桑). Vương dật chua: “Huyền Minh là thần mặt trăng” (玄冥,太陰之神). Lý Bạch trong bài Đại chạp phú có đoạn: “Ấy như: mùa đông thảm thiết, khí lạnh căm căm, chẳng muốn gió về, Huyền Minh ném tuyết.” (若乃嚴冬慘切,寒氣凛冽, 不周來風, 玄冥掌雪). Huyền Minh đồng thời trỏ thần phương bắc. Sách Hán Thư phần Dương Hùng truyện thượng, Nhan Sư Cổ chú dẫn ưng thiệu rằng: “Chuyên Húc, Huyền Minh, đều là thần phương bắc, chủ việc giết chóc.” (顓頊、玄冥,皆北方之神,主殺戮也). Hắc Đế, Huyền Minh đà đổi ấn, sóc phong, bạch tuyết hãy đeo đai. (Trừ tịch 194.3). x. Hắc Đế.
Hải Nhược 海若
dt. thần biển, theo bài Viễn Du trong Sở Từ. Hải Nhược chiết nên cành quế tử, Giang Phi chiếm được chước thiềm cung. (Thuỷ trung nguyệt 212.3)‖ (Thuỷ thiên nhất sắc 213.3).
trào 嘲
dt. trào lộng. Ngâm sách “thằng chài” trong khuở ấy. Tiếng trào dậy khắp Thương Lang (Ngôn chí 9.8). Khuất Nguyên trong Sở Từ viết: “Khuất Nguyên bị phóng trục, lang thang khắp sông đầm, vừa đi vừa thở than trên bờ, nhan sắc tiều tuỵ, thân hình khô héo. Ngư phủ thấy nên hỏi rằng: ‘ngài chẳng phải là tam lư Đại phu đó sao? sao lại đến nông nỗi này?’ Khuất Nguyên rằng: ‘đời này đều đã đục cả rồi, riêng mình ta trong, chúng nhân đều say hết, còn riêng ta tỉnh, cho nên mới bị đi đày.’ ngư phủ nói: ‘thánh nhân chẳng câu nệ vào vật mà phải biết thay đổi theo thời cuộc. Người đời đều đục, sao ngài chẳng quật bùn tung sóng? chúng nhân đều say, sao ngài chẳng xơi bã khà rượu? hà cớ gì cứ phải sống cao nghĩ sâu, tự làm khổ mình?’ Khuất Nguyên trả lời: ‘ta nghe nói, mới gội đầu xong thì giũ dải mũ, mới tắm xong thì sửa xiêm y; sao có thể đem tấm thân sạch sẽ này mà hứng lấy những vật bẩn thỉu cho được? thà chơi cõi giang hồ, gửi xác nơi bụng cá còn hơn. Sao có thể lấy cái thanh sạch của mình mà đỡ lấy cái cặn bã của thế tục?’ ngư phủ nhếch mép cười mà đi mất, gõ mái chèo ca rằng: nước Thương Lang trong a, có thể gột dải mũ; nước Thương Lang đục a, có thể để rửa chân. Bèn đi thẳng, chẳng nói nữa.”
táp táp 颯颯
◎ ABK: sà sà. Phiên khác: lớp lớp (TVG), tớp tớp: hình dung cách bay chập chờn của bướm ( ĐDA), chớp chớp: hình dung cánh bướm xoè ra cụp vào (BVN, MQL). Nay theo cách phiên chú của Schneider.
đgt. <từ cổ> vù vù, sà sã. Sở Từ thiên Cửu ca viết: “Gió sà sã chừ cây xao xác.” (風颯颯兮木蕭蕭 phong táp táp hề mộc tiêu tiêu). Nội hoa táp táp vây đòi hỏi, doanh liễu khoan khoan kháo lữa lần. (Điệp trận 250.3).